Thông tin khoa học
| Bộ: | Bộ cánh nửa - Hemiptera |
| Họ: | Aphididae (Họ rệp muội xơ trắng) |
| Tên KH: | Ceratovacuna lanigera Zehntner, 1897 (viết tắt C. lanigera) |
| Tên gọi: | Rệp sáp mía (đây là tên gọi chung quốc tế được dùng rộng rãi) |
| Tiếng Anh: | White sugarcane aphid (Rệp trắng mía) |
| Tên khác: | Cerataphis lanigera, Cerataphis saccharivora, Oregma lanigera |
| Việt Nam: | Rệp bông xơ trắng, Rệp xơ bông trắng, Rệp xơ trắng,... |
| Nhận dạng: | Con cái trưởng thành có lớp phủ sáp như bông xơ |
Nguồn gốc: Là một loại sâu hại chủ yếu ảnh hưởng đến mía, làm giảm cả chất lượng cây trồng và năng suất đường. Loài này, có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới Java, Indonesia, đã lan rộng nhanh chóng khắp Đông Nam Á và Đông Á, với các quần thể đã được xác định ở Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Nepal, Philippines, Việt Nam và Indonesia.
Phạm vi ký chủ: Phạm vi vật chủ rộng của C. lanigera bao gồm nhiều loài cây như: Bambusa spp: Tre ; Coix lacryma-jobi: Ý dĩ; Cynodon dactylon: Cỏ gà; Imperata cylindrica: Cỏ tranh; Miscanthus floridulus: Lô sáng; Phragmites australis: Cây sậy; Pennisetum alopecuroides: Cỏ đuôi chồn; Saccharum officinarum: Mía ; Saccharum sinense: Mía tím; Saccharum spontaneum: Lách; Sorghum halepense: Cỏ xước. Chính điều này đã cho phép nó tồn tại trong môi trường sống không phải là cây trồng, do đó làm phức tạp các chiến lược quản lý dịch hại hiệu quả.
Tác hại của rệp: Rệp non và trưởng thành sống tập trung từng đám ở mặt sau của lá, rệp chích hút dịch cây làm cho mía sinh trưởng kém, giảm năng suất và giảm độ đường, giảm sức nảy mầm. Rệp còn thải ra phân tạo điều kiện cho nấm bệnh muội than phát triển làm giảm khả năng quang hợp của mía.
Ở Nghệ An hàng năm có đến hàng ngàn ha mía bị rệp gây hại, cao điểm năm 2006 toàn tỉnh có đến 11.189ha/25.261ha bị rệp gây hại. Trên những diện tích đã có rệp gây hại thì ít nhiều đều ảnh hưởng đến sinh trưởng, năng xuất và chất lượng mía, đặc biệt trên diện tích nhiễm rệp nặng từ cấp 3 có rệp phân bố từ 1/3 số lá, cây trở lên.
Tác hại của rệp rất rõ có thể giảm năng suất từ 30 đến 70% hoặc hơn, giảm lượng đường thương phẩm CCS xuống dưới 5% (trung bình 10%). Ngoài giảm năng xuất mía, còn làm tăng chi phí đầu tư do phải phòng trừ rệp và ảnh hưởng đến sức khỏe con người và ô nhiễm môi trường.
Một số đặc điểm sinh học, sinh thái học: Ấu trùng (rệp non) được sinh ra từ con cái có cánh khá hoạt động, có cơ thể dài, hình bầu dục và có màu trắng xanh nhạt. Con cái trưởng thành không có cánh dài 1,78 mm và rộng 1,07 mm, cơ thể rất mềm, dẹt sang hai bên và phủ đầy dịch tiết trắng như bông. Rệp con màu vàng nhạt hoặc xanh thẫm, rệp cái có cách màu trong suốt, rệp cái không cánh mặt lưng phủ đầy lớp sáp bông trắng (nên gọi rệp xơ bông trắng).
Rệp cái đẻ ra con, loại có cánh có thể đẻ được 15-20 con, loại không có cách đẻ được 30-60 con, rệp lột xác 3 lần, rệp có sức sinh sản nhanh và mạnh, một năm có khoảng 20 lứa, trong điều kiện thuận lợi 1 lứa từ 14-16 ngày. Rệp phát triển mạnh ở điều kiện trời mưa ẩm xen kẽ và trời khô hanh nhiệt độ từ 20-23 độ C.
Ở Nghệ An qua nhiều năm theo dõi thấy rệp bắt đầu phát sinh từ tháng 3 trên ruộng mía tái sinh từ gốc (ở những vùng có rệp gây hại từ năm trước), sang mùa hè các tháng 5-6-7 rệp phát sinh ít gây hại nhẹ (ở dạng duy trì) và bắt đầu phát sinh mạnh có mật độ cao từ tháng 8 trở đi, rệp gây hại nặng nhất trong các tháng 9-10-11. Khi gặp thời tiết nắng nóng nhiệt độ cao, khô hạn hoặc mưa to mật độ rệp giảm rõ rệt.
Vòng đời (vòng tuần hoàn sinh trưởng): Trứng (1-3 ngày) - Ấu trùng (6-22 ngày) - Trưởng thành (3-5 ngày). Vòng đời của rệp bông xơ trắng mía rất linh hoạt, có thể chỉ từ 10 ngày đến 28 ngày, tùy điều kiện khí hậu, nguồn thức ăn, mùa vụ mà vòng đời có thể rút ngắn. Điều này có thể gây tăng mật độ rất nhanh trong một thời gian ngắn nếu hội tụ đủ các điều kiện thuận lợi cho rệp phát triển.
Triệu chứng: Ấu trùng và trưởng thành của rệp C. lanigera tạo thành đàn ở mặt dưới lá và hút nhựa cây. Dịch đường của rệp này bao phủ toàn bộ bề mặt lá, dẫn đến sự phát triển của nấm bồ hóng. Điều này làm còi cọc mía và làm lá khô héo, dẫn đến giảm năng suất và hàm lượng đường.
Tác hại của bội nhiễm nấm bồ hóng hoại sinh: Sự tấn công của C. lanigera, và sự phát triển tiếp theo của nấm mốc trên bề mặt lá, ảnh hưởng rất lớn đến quá trình quang hợp của cây mía bị nhiễm bệnh. Điều này có thể dẫn đến chết chồi non và ảnh hưởng tiêu cực đến năng suất mía cuối cùng. Khi mía đang sinh trưởng bị nhiễm nặng, thân mía sẽ ngắn hơn, kém phát triển hơn và hàm lượng đường giảm 15%.
Phòng ngừa: Phương pháp phòng ngừa tốt nhất là kiểm soát việc nhập khẩu, di chuyển nội địa giống mía và các cây ký chủ khác thuộc họ Poaceae (họ hòa thảo) vào những khu vực không có C. lanigera. Việc trồng các giống mía có khả năng kháng C. lanigera là phương pháp kiểm soát quan trọng nhất được sử dụng để chống lại loài rệp này.
Loại bỏ và tiêu hủy những cây bị ảnh hưởng và đốt chúng, tránh xa cánh đồng. Hoàn toàn tránh vận chuyển mía hoặc vật liệu hạt giống bị ảnh hưởng từ những nơi bị ảnh hưởng đến các khu vực khác. Thực hành trồng hàng rộng/hàng đôi cách nhau 1,2 m và loại bỏ cây mía để thoáng khí hơn và ánh sáng dễ dàng thâm nhập hơn. Tránh cây trồng tái sinh.
Không được sử dụng mía làm giống từ những ruộng bị nhiễm rệp từ vụ trước, nên sử dụng những giống mía có tích chống chịu rệp để đưa vào cơ cấu trồng (dựa vào kết quả theo dõi qua hàng năm từ các giống đang trồng ở địa phương để lựu chọn khuyến cáo cho nông dân dùng, trên thực tế thường nhóm giống mía ROC nhiễm rệp nhẹ hơn các giống MY55-14,...).
Sau thu hoạch cần thu gom vệ sinh sạch sẽ ruộng mía đem chôn lấp hoặc tập trung thành đống để đốt, đặc biệt ở những vùng có rệp gây hại nặng, dọn sạch xung quanh bờ cỏ,...nhằm giảm bớt nơi cư trú của rệp.
Kiểm soát sinh học: Việc thả hàng loạt bọ rùa Synonycha grandis , được nuôi bằng rệp sáp thu thập tại đồng ruộng, đã được sử dụng để kiểm soát C.lanigera. Hoặc thả các loài săn mồi chính như: Dipha aphidivora, Micromus igorotus và Eupeodes confrater… Hoặc phun chế phẩm Beauveria / Metarhizium với liều lượng 1g hoặc 1 ml / lít nước.
Biện pháp hóa học: Áp dụng giải pháp Profesfar®A.CELA khi cây mía nhiễm từ 5 con rệp/lá.
Profesfar®A.CELA là giải pháp quản lý nhóm rầy rệp trên cây mía của Profesfar® giúp Bảo vệ cây mía khỏi côn trùng hút nhựa cây. Profesfar®A.CELA giúp kiểm soát côn trùng đã phát triển khả năng kháng lại các hoạt chất trừ sâu khác. Điều này giúp nông dân xử lý được những vấn đề mà các loại thuốc khác không còn hiệu quả. Ngăn chặn sự lây lan và phát triển côn trùng chích hút, giúp cây trồng duy trì sức sống và năng suất cao, giảm thiểu nguy cơ mất mùa, đồng thời góp phần nâng cao chất lượng nông sản.
Lưu ý: Vào giai đoạn đầu khi rệp mới phát sinh đang ở “dạng ổ” chỉ một vài khóm mía, mật độ còn thấp, cầp phát hiện sớm để phun trừ hạn chế rệp lây lan ra diện rộng. Do rệp chủ yếu sinh sống ở mặt sau lá mía và các lá non phần ngọn, vì vậy khi phun thuốc đặc biệt các loại thuốc có tính tiếp xúc thì phải phun ướt đều cả 2 mặt lá mía và toàn bộ phần lá ngọn thì mới có hiệu quả. Giai đoạn đầu cây mía nên sử dụng thuốc nội hấp lưu dẫn. Sau phun thuốc phải tiếp tục theo dõi, trường hợp rệp tiếp tục phát sinh mạnh cần phun lại lần 2 cách lần 1 từ 7-10 ngày. Sau phun thuốc từ 6giờ trở lại nếu gặp mưa “thuốc sẽ bị rửa trôi làm giảm hiệu lực” nên phải phun lại thì mới bảo đảm diệt rệp.
Biên soạn: Thạc sĩ. Phan Anh Thế
